phong cách văn học

Sau đây là các bước cơ bản để trình bày một văn bản dạng đơn từ bằng chương trình soạn thảo văn bản MS Word: Mở chương trình Word trên máy vi tính và kiểm tra và thiết lập khổ giấy, khoảng cách lề, kiểu chữ, kích thước chữ phù hợp. Đối với các văn bản thông Con đường hình thành phong cách văn hóa HCM (Sự tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại để làm nên phong cách Hồ Chí Minh) a. Cơ sở của sự tiếp thu Xuất phát từ ý thức ham học hỏi: Đi đến đâu Người cũng học hỏi và tìm hiểu văn hóa, nghệ thuật đến một mức khá uyên thâm. Xuất phát từ mục đích phục vụ cho sự nghiệp cách mạng. b. B. baivanhay. 23/8/21. Phong cách sáng tác của Ngô Tất Tố. Nhà văn Vũ Trọng Phụng đã từng nhận xét về Ngô Tất Tố: "Một tay ngôn luận xuất sắc trong đám nhà nho" bởi ở lĩnh vực báo chí Ngô Tất Tố luôn mạnh dạn và thẳng thắn, nó bộc lộ sự quyết liệt khi phê phán Ngôn ngữ khoa học Đặc trưng: - Tính khái quát, trừu tượng, tính lý trí, logic, tính khách quan, phi cá thể II Đặc trưng của phong cách ngôn ngữ khoa học 1. Tính khái quát, trừu tượng 2. Tính lí trí, logic 3. Tính khách quan, phi cá thể III LUYỆN TẬP 1. Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về văn hóa giáo dục Chủ tịch Hồ Chí Minh là nhà tư tưởng, nhà lý luận thiên tài của cách mạng Việt Nam. Toàn bộ di sản tư tưởng của Người là một kho báu văn hóa của dân tộc, hàm chứa nhiều lĩnh vực rộng lớn và phong phú. Site De Rencontre Femme Entre Femme Gratuit. Trong mảng văn học hiện thực phê phán, Nam Cao là tác giả đến muộn trong khi Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố... đã tạo dựng được chỗ đứng chắc chắn cho riêng mình với những tác phẩm nổi danh. Ở mảnh đất tưởng chừng đã được cày xới kĩ càng, Nam Cao vẫn tìm được cho mình một phong cách riêng biệt, tỏa sáng với một số lượng lớn tác phẩm đặc sắc, góp phần đưa dòng văn học hiện thực lên một đỉnh cao mới. Bài viết này sẽ viết về Phong cách văn học đặc sắc của Nam Cao và có so sánh sự khác biệt với các nhà văn cùng Tìm hiểu chung về phong cách văn học, phong cách của nhà văn, biểu hiện của nó.​1. Phong cách văn học​Phong cách nghệ thuật là tính độc đáo có ý nghĩa thấm mĩ của một hiện tượng văn học nền văn học của một dân tộc, một thời đại văn học, một trào lưu văn học, sự nghiệp sáng tác của tác giả… Các yếu tố tạo nên phong cách văn học hệ thống các hình tượng, các phương thức biểu hiện nghệ thuật Phong cách văn học làm cho quá trình phát triển của văn học không phải là sự lặp lại nhàm chán mà là sự tiếp nối của những phát hiện nghệ thuật mới mẻ, giàu ý Phong cách nghệ thuật của nhà văn​Biểu hiện ở việc đem đến cho người đọc một cái nhìn mới mẻ về cuộc sống, con người thông qua những hình tượng nghệ thuật đôc đáo và những phương thức, phương tiện biểu hiện đặc thù, in đậm dấu ấn cá nhân. Ví dụ, Hoài Thanh nói về phong cách nghệ thuật của Xuân Diệu thời thơ mới "Một tâm hồn mở rộng, một tấm lòng chào đón, một con người ân ái đa tình… ham yêu, biết yêu…" Lời tựa tập Thơ thơ - 1938 Những yếu tố tạo nên phong cách nghệ thuật của tác giả Yếu tố chủ quan thế giới quan, tâm lí, cá tính sinh hoạt.., khách quan tác giả chịu ảnh hưởng từ phong cách văn học của một dân tộc, thời đại, trào lưu, kiểu sáng tác Phong cách nghệ thuật của tác giả có sự thống nhất, lặp đi, lặp lại, có qui luật của các yếu tố nghệ thuật trong một loạt tác cách nghệ thuật là gì?​Nói phong cách nghệ thuật nhà văn là nói đến một hệ thống những nét riêng biệt, độc đáo trong cách nhìn về thế giới và con người, nó thể hiện qua các phương thức, phương tiện nghệ thuật in đậm dấu ấn cá nhân của chủ thể sáng tạo. Những nét riêng biệt, độc đáo đó có sự thống nhất, lặp đi lặp lại trong những sáng tác của nhà văn và nó tạo cho nhà văn một “chân dung tinh thần” riêng, không thể lẫn với ai. Một cách diễn đạt khác về phong cách Trong sáng tác văn học, nhà văn tạo ra được những dấu ấn riêng biệt, độc đáo trong quá trình nhận thức và phản ánh cuộc sống, biểu hiện rõ cái độc đáo qua các phương diện nội dung và hình thức của từng tác phẩm, nhà văn đó được gọi là nhà văn có phong cách nghệ thuật. Cũng có tác giả đa phong cách, nhưng không phải tác giả nào cũng có phong cách. Chỉ những nhà văn thực sự tài năng, có cá tính sáng tạo mạnh mẽ, có ý thức nghệ thuật độc đáo mới có phong cách. Giai đoạn văn học 1930- 1945 là giai đoạn phục hưng của nền văn học dân tộc, một chặng đường ngắn mà hình thành khá nhiều cây bút có phong cách. Dựa vào thành tựu trong sáng tác của các nhà văn, chúng ta có thể nêu ra các tác giả văn xuôi hiện thực có phong cách rõ rệt là Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Nam Cao3. Những biểu hiện để xác định một nhà văn có phong cách nghệ thuật​- Cách nhìn, cách cảm thụ giàu tính khám phá nghệ thuật đối với cuộc đời - Giọng điệu riêng gắn liền với cảm hứng sáng tác. - Nét riêng trong lựa chọn đề tài, chủ đề, đối tượng miêu tả. - Tính thống nhất, ổn định trong cách sử dụng các phương thức và phương tiện nghệ Cái nhìn​Trước hết nhà văn có những khám phá mới mẻ trong cách nhìn cuộc sống. Chẳng hạn, cùng là nhà văn hiện thực trước cách mạng như Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, nhưng Nam Cao quan tâm nhiều về nỗi khổ đến mức bi kịch của người trí thức. Nam Cao cũng cắt nghĩa được nguyên nhân sâu xa của nỗi khổ của họ và lên tiếng đánh động xã hội. “Người nọ, người kia không đáng để ta khinh ghét. Cái đáng nguyền rủa là cái xã hội kia. Nó đã tạo ra những con người tham lam và ích kỷ.” Sống mòn. Phát hiện và phát biểu như vậy là đáng quý, nhưng cái “hơn người” của Nam Cao là luôn băn khoăn về nhân phẩm của con người và ý thức báo động con người hãy giữ lấy nhân phẩm của mình trước những cái nhỏ mọn. Đó chính là chiều sâu của cái tâm nhà văn, nó định hướng cách nhìn đời và nhìn người của tác giả. b Dấu ấn sáng tạo của tác giả còn bộc lộ ra qua các yếu tố thuộc phương diện nội dung của tác phẩm. Chọn lựa đề tài, triển khai cốt truyện, xác định chủ đề, xác lập tứ thơ, mỗi nhà văn sáng tạo ra “đất” riêng của mình. Cũng hiện thực tăm tối trước 1945, Ngô Tất Tố phát hiện ra “vùng trời tối đen như mực” của người nông dân, trong khi Thạch Lam quan tâm đến những đứa trẻ phố huyện có cuộc sống “một ngày như mọi ngày”, đến ước mơ cũng không biết ước mơ điều Giọng điệu của tác phẩm​Vì vậy người ta hay nói giọng trào phúng của Vũ Trọng Phụng, giọng triết lý của Nam Cao. Ngay ở Nam Cao cũng có giọng trào phúng, nhưng đã có người chỉ ra rất cụ thể như sau “So với Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng thì Nam Cao có nhiều điểm khác cười của Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng là tiếng cười hướng ngoại, còn tiếng cười của Nam Cao là tiếng cười hướng nội.”d Biểu hiện rõ nhất của cá tính sáng tạo làm nên phong cách nghệ thuật nhà văn là ở hệ thống các phương thức, phương tiện nghệ thuật được nhà văn sử dụng trong tác phẩm.​Đó là nghệ thuật xây dựng nhân vật, sử dụng ngôn ngữ, tổ chức kết cấu bộc lộ sự “cao tay” của nhà văn. Tài hoa và uyên bác là phong cách của Nguyễn Tuân trong việc vận dụng ngôn ngữ, ở lĩnh vực này thì Vũ Trọng Phụng để lại ấn tượng ở ngôn ngữ nhân vật đạt mức độ cá tính hóa cao nhất. e Sáng tạo để làm nên cái riêng, cái mới lạ trong các phương diện trên, song mỗi nhà văn có phong cách phải “thống nhất trong sự đa dạng của sáng tác. Cái độc đáo, vẻ riêng phải xuất hiện thường xuyên, lặp đi lặp lại, có tính chất bền vững nhất quán ”Ngữ văn 12,tập 1,Nxb giao dục, 2009. Không chỉ có thế, bất cứ sự sáng tạo ra cái độc đáo nào đòi hỏi phải nằm trong tầm đón nhận của độc giả, nghĩa là phải có hiệu quả thẩm mỹ, đem lại sức hấp dẫn bền lâu cho người đọc. g Phong cách nghệ thuật định hình ở một nhà văn phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó ngoài yếu tố chủ quan là quan niệm nghệ thuật chi phối sáng tác, thì hơi thở của dân tộc và thời đại cũng thổi không khí vào sáng tác của tác giả. Cần lưu ý là mỗi tác giả có phong cách nghệ thuật không nhất thiết phải có đầy đủ các biểu hiện như đã chỉ ra ở Những đặc điểm nổi bật trong phong cách nghệ thuật của nhà văn Nam Cao​1. Nam Cao thường viết về những cái nhỏ nhặt, xoàng xĩnh trong cuộc sống hàng ngày, qua đó triết lí về cuộc đời, đặt ra vấn đề có ý nghĩa to lớn về cuộc sống và nghệ thuật.​Nam Cao thường viết về những cái nhỏ nhặt nhưng lại đặt ra những vấn đề có ý nghĩa xã hội lớn lao, thể hiện những triết lí sâu sắc về con người, về cuộc sống, về nghệ thuật. Truyện Sao lại thế này? viết về sự đổi thay của một người phụ nữ từ một người vợ nhà quê, mất nết thành bà Hưng Phú có tư cách của một người đàn bà quí phái với nhiều đức tính tốt đẹp. Bà Hưng Phú giàu sang, lịch thiệp bây giờ, trước đây là vợ cũ của Hiệp. Hồi ấy, thị cứng như một cái đanh, bẩn thỉu, và cục mịch. Trong con mắt của Hiệp, thị là một đứa con gái đét đóng, gầy guộc, đầu bù tóc rối, quần áo lôi thôi, mặt ngơ ngác, da xanh bủng, cả ngày chả nói một câu, mà ăn thì thô tục, thì cắm cúi mắt chẳng lúc nào rơi cái bát. Thị xấu tính đến mức cả làng ai cũng biết thị đã vụng, đã lười, đã ăn không nên đọi, nói chẳng nên lời, lại còn có tính gian thị chúa đời là hay ăn cắp và hay ăn vụng. Một đứa con gái như thế, vậy mà hơn mười năm sau, khi được sống trong hoàn cảnh khác đã thay đổi từ hình dáng đến tính tình đến mức ngay cả Hiệp cũng không nhận ra đó là vợ cũ của mình nữa. Bà Hưng Phú trong con mắt của Hiệp bây giờ là người đàn bà lịch sự có tài nói chuyện, có giáo dục, có tư cách, có tâm hồn. Bà biết vui mà không lả lơi, đứng đắn mà không nghiêm nghị, nhẹ nhàng mà không phù phiếm. Cách trang điểm của bà cũng vậy đẹp nhưng nhũng nhặn. Qua Sao lại thế này? Nam Cao lên tiếng phê phán những thành kiến ngu ngốc, và nhất là nhấn mạnh tầm quan trọng của hoàn cảnh đối với việc hình thành tính cách của con người. Hoàn cảnh đổi rất có thể là người đổi, tâm tính về anh cu Lộ trong Tư cách mõ, Nam Cao kể việc Lộ ngang nhiên trơ tráo ngồi ăn, phè phỡn một mình một mâm. “Mùa đến, hắn vác một cái đòn càn có quấn mấy sợi thừng ở một cột đầu, đi hết ruộng nọ đến ruộng kia…đến xin bà, hay thầy, hay cô lượm lúa…Mồm hắn nói, tay hắn lượm…”. “Tết đến, ngày mùng một, bố con hắn xách một bao chè với năm quả cau đến mừng tuổi các ông quan viên để kiếm cỗ ăn và kiếm tiền phong bao. Rồi mùng năm mùng sáu, vợ chồng hắn lại đi tua nữa, để xin bánh chưng, bánh thừa…” Qua đó, Nam Cao đã phác họa cho ta thấy một hình ảnh người nông dân bị thống trị bóc lột, có lúc đã thay đổi được số phận mình nhưng đó chỉ là những hành động tự phát riêng lẻ, xuất phát từ sự liều lĩnh. Chưa bao giờ có ý thức cải tạo xã hội, thay đổi kiếp người, chưa được hướng dẫn bởi ánh sáng của bất cứ lí tưởng xã hội nào. Vấn đề triết lý dường như xuyên suốt trong hầu hết tất cả các sáng tác của Nam Cao. Có thể nói, cảm hứng triết lý đã trở thành cảm hứng nghệ thuật trong phong cách nghệ thuật của Nam Cao. Gần như truyện nào ta cũng thấy câu hỏi “Chao ôi, ở trên đời này có cái gì bền vững mãi đâu?”. Cũng như có lúc Nam Cao lên tiếng bằng tiếng nói phẫn uất “Tại sao ở hiền không phải bao giờ cũng gặp lành?”. Tất cả tạo nên một giọng điệu đặc trưng rất Nam Cao giọng triết lý với đa sắc điệu. Khi thì đắng cay chua chát, lúc lại hài hước, dí dỏm. Kết quả của lối triết lý trong sáng tác của Nam Cao là do sự quan sát tinh tế cùng với ý thức chiêm nghiệm về cuộc đời và nỗi đau đáu thương người. Viết về người trí thức nghèo, Nam Cao tập trung khai thác tấn bi kịch tinh thần của họ. Hoài bão, khát vọng và hiện thực không dễ dàng dung hòa trong bất cứ xã hội nào. Hiện thực ấy được Nam Cao khéo léo chuyển tải qua câu chuyện xung đột trong gia đình Hộ- một nhà văn. Riêng Hộ vi phạm quy tắc tình thương hay nhiều nhà văn đều có thể vi phạm như Hộ? Đó là bi kịch của tầng lớp trí thức tiểu tư sản khi gánh nặng cơm áo gia đình buộc họ phải sa một chân vào sự tàn nhẫn, nhỏ nhen,… Tuy nhiên, ở Đời thừa, nhiều triết lý khác hiện ra rất dễ nhận thấy và có thể xem đó là những triết lý đúng đắn về bản chất của sự sáng tạo “…không cần đến những người thợ khéo tay làm theo một vài kiểu mẫu đưa cho. Văn chương chỉ dung nạp những người biết đào sâu, biết tìm tòi, khời những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những cái gì chưa có”. Nam Cao đã đặt ra những vấn đề xã hội rộng lớn đòi hỏi một cuộc cách mạng xã hội tiến bộ mới mong giải quyết được. Cũng vậy, vấn đề dấu tranh chống lại cái ác, cái xấu, vấn đề bảo vệ nhân cách trước áp lực tha hóa của hoàn cảnh, vấn đề cái xấu của người lớn trước mặt trẻ con, bi kịch “sống thừa” của người trí thức, những cái chết ngay trong lúc còn đang sống, chết cả trong lúc nó, chết trong đau khổ của sự nhẫn nhục, cam chịu theo triết lý tôn giáo, triết lý tình thương, sự công bằng… Tất cả những vấn đề ấy, mặt nổi là vấn đề triết lý vẫn còn đòi hỏi buộc người đọc tiếp tục suy ngẫm… Nghiên cứu tác phẩm Nam Cao, sách “Văn học Việt Nam thế kỉ XX” Phan Cự Đệ có nhận định thật xác đáng “Ở truyện ngắn của Nam Cao, chúng ta thường thấy hai tầng ý nghĩa Một tầng ý nghĩa gắn với tình tiết sự việc và câu chuyện mà nhà văn muốn trần thuật lại; và tầng thứ hai, là những đúc kết có tính chất khái quát, triết lý…”2. Nam Cao có tài đặc biệt trong việc phân tích và diễn tả tâm lí nhân vật. Ngòi bút của ông có thể thâm nhập vào những quá trình tâm lý phức tạp, những ngõ ngách sâu kín nhất của tâm hồn con người; từ đó dựng lên được những nhân vật tư tưởng vừa có tầm khái quát lớn vừa có cá tính độc đáo.​Nam Cao là một bậc thầy trong cách kể chuyện vừa hết sức chân tình vừa mang tầm khái quát cao. Người đọc có cảm tưởng nhân vật không hề hư cấu, tất cả đều rất thật. Từ những chuyện xoàng xĩnh đời thường như không có gì để nói, Nam Cao đã làm nổi bật lên những vấn đề có ý nghĩa to lớn về xã hội, nhân sinh với cách vào chuyện, dân chuyện tự nhiên lôi cuốn, kết cấu rất thoải mái, mới nhìn dường như tùy tiện nhưng kì thực rất chặt Cao có sở trường miêu tả, phân tích tâm lí nhân vật. Ngòi bút của ông có khả năng đi sâu vào những ngõ ngách, tâm tư sâu kín cùng những diễn biến phức tạp trong nội tâm con người. Truyện ngắn Nam Cao trước Cách mạng tháng Tám là truyện ngắn tâm lí. Nam Cao dẫn ta nhập vào dòng suy nghĩ, dòng chảy tâm trạng của nhân vật. Tính chất “đang suy nghĩ”, “đang đối thoại”, “đang độc thoại”, “đang nói chuyện trong tâm tưởng” của nhân vật là một nét đặc trưng trong các sáng tác của Nam Cao. Nếu như nhân vật văn xuôi của các nhà văn hiện thực chủ nghĩa chủ yếu là nhân vật hành động, nhân vật tính cách , thì đến Nam Cao đã sáng tạo ra kiểu nhân vật tự ý thức, ý thức về số phận, về kiếp mình. Câu chuyện là dòng tâm lí vận động không ngừng. Cảnh vật và thời gian cũng thấm đẫm tâm lí nhân vật. Như quá trình say rồi tỉnh của Chí Phèo được miêu tả một cách rất biện chứng qua cuộc gặp gỡ với Thị Nở. Từ một thằng lưu manh say khướt, sau một cuộc đụng chạm xác thịt mang tính chất bản năng và cơn cảm nặng, khiến Chí tỉnh táo hẳn lên để lặng nhớ kỉ niệm, lắng nghe cuộc đời. Sau những tháng ngày chìm dài trong cơn sau, lần đầu tiên Chí thấy mình tỉnh. Anh nghe thấy những âm thanh của cuộc sống, đó là tiếng chim hót, tiếng người thợ thuyền gõ mái chèo đuổi cá, tiếng người đi chợ về…Những âm thanh tuy rất quen thuộc với những người bình thường nhưng sao lại xa lạ với Chí quá. Nó khiến hắn nhận thức được rằng thì ra cuộc sống ngoài kia vẫn đang tốt đẹp duy chỉ có hắn bị đẩy ra đứng bên lề xã hội. Trong giờ phút tỉnh rượu hiếm hoi, Chí Phèo nhớ lại một quá khứ đã qua, một quá khứ với những giấc mơ rất đỗi bình thường “có một gia đình nho nhỏ. Chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải. Chúng lại bỏ một con lợn nuôi để làm vốn liếng. Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm”. Ôi! Cái ước mơ giản dị tưởng như ai cũng dễ dàng có được mà bàn tay Chí không thể với tới. Chí bỗng nhận ra thực trạng đáng sợ của đời mình “hắn đã già”, “ngoài bốn mươi tuổi đầu”. Nhìn lại cuộc đời mình Chí chẳng có gì ngoài một con số không không nhà không cửa, không họ hàng thân thích , không mảnh đất nương thân. Thậm chí đời hắn còn là một con số âm khi hắn còn mất cả nhân cách người. Một tương lai tối mịt đang chờ Chí “đói rét, ốm đau và cô độc”. Chưa bao giờ Chí thấy lo sợ như bây giờ, đến một lúc nào đó không còn đủ sức mà giật cướp nữa, hắn sẽ sống bằng gì? Sự hoang mang lo lắng làm hắn sắp khóc nếu Thị Nở không đến. Thị Nở xuất hiện với bát cháo hành và lần đâu tiên Chí được người khác cho. Cũng phải thôi, từ trước đến nay có ai cho hắn cái gì bao giờ, “hắn phải dọa nạt hay giật cướp”. Chính vì thế mà “thằng này rất ngạc nhiên. Hết ngạc nhiên thì hắn thấy mắt hình như ươn ướt.” Hình như Nam Cao rất tin vào những giọt nước mắt, đối với ông những giọt nước mát ấy là sự thể hiện của một nhân cách đang tìm về. Và thật đúng trong giờ phút đón nhận bát cháo hành, biểu hiện của tình yêu thương mà lần đầu tiên Chí được hưởng, thì cũng là lúc bản chất người bấy lâu nay trỗi dậy “Ôi sao mà hắn hiền” là hắn nhận thấy mình “thèm lương thiện. Hắn muốn làm hòa với mọi người biết bao. Thị Nở sẽ mở đường cho hắn”. Vậy bằng cách miêu tả nội tâm nhân vật, Nam Cao đã làm rõ quá trình thức tỉnh của Chí Phèo như là một quá trình tự ý thức của nhân vật. Vì thế tính cách nhân vật thể hiện rất chân “Đời thừa”, một trong những đoạn văn điển hình cho kĩ thuật này là đoạn kết thúc, thể hiện quá trình xám hối của nhân vật sau một đêm say rượu và có những hành vi vũ phu với vợ con. Qúa trình này được bắt đầu bằng một cảm giác, một cảm nhận thuần túy thể xác, có ý thức “hắn tỉnh dậy”, “hắn thấy mình mẩy đau như dần, đầu nặng, miệng khô và đắng”… Cảm giác thân xác đó thúc đẩy một cử chỉ “đưa tay với ấm nước” và chính cái ấm nước đầy, hãy còn ấm ấy đã đánh thức sự thức tỉnh của ý thức về sự ý tứ của Từ. Và liền đó, ý thức đánh thức một tâm trạng buồn. Và sau đó là kí ức, là nhớ. Cứ thế hành động lôi cuốn suy nghĩ nhân vật trôi đi trong “nhớ”, trong “hoảng sợ”, trong những suy nghĩ miên man về vợ, về mình và cuối cùng bật ra tiếng khóc “Nước mắt hắn bật ra như một quả chanh mà người ta bóp mạnh”. Chuỗi tâm lí này được dồn nén trong một đoạn văn ngắn và điều quan trọng là mỗi “mắt xích” trong chuỗi đều có sự liên kết với những “mắt xích” khác. Đó là kết quả của một nguyên nhân trước đó và đến lượt mình lại là nguyên nhân của một kết quả nối tiếp. Từ việc miêu tả tâm lí nhân vật, Nam Cao dựng lên nhân vật có tầm khái quát lớn hay còn gọi là nhân vật điển hình. Ông hay viết về một người, từ đó dựng lên thành nhiều người, viết về một người đàn bà mà thành cả xã hội nữ giới, viết về một cậu con trai mà thành một tầng lớp thanh niên. Chí Phèo là hình tượng có tính quy luật, là sản phẩm của sự áp bức ở nông thôn. Sự tha hóa của Chí Phèo khá phổ biến và trở thành nỗi ám ảnh của Nam Cao. Ta bắt gặp một tạng nhân vật như Chí Phèo trong một số tác phẩm khác như Trạch Văn Đoành “Đôi móng giò”, Lộ “Tư cách mõ” và ngay trong truyện “Chí Phèo” còn có Năm Thọ, Binh Chức và thấp thoáng một Chí Phèo con sắp ra Chí Phèo, Nam Cao muốn ném ra giữa cuộc đời một thằng “cùng hơn cả dân cùng” điển hình cho những nỗi khốn khổ, tủi nhục nhất của người nông dân trong xã hội thực dân phong kiến. Chí Phèo không cha mẹ, không họ hàng thân thích, không một tấc đất cắm dùi. Mới đẻ ra Chí đã bị vứt bên một lò gạch cũ bỏ không, trở thành một món hàng mua bán. Suốt quãng đời từ thuở còn thơ “bơ vơ hết đi ở nhà này lại đi ở nhà nọ” đến tuổi thanh niên làm công điền cho ông Bá Kiến, Chí Phèo phải làm thân trâu ngựa của người cố nông lao động cực khổ ở nông Chí Phèo vào hoàn cảnh không được sống đúng với bản chất, như điều mình mong muốn là người lương thiện mà phải sống bất lương, là người lao động chân chính mà phải đi ăn cướp, muốn thân thiện mà lại phải đi phá hoại hạnh phúc của mọi người… Chính nhà tù thực dân, sự áp bức bóc lột nặng nề, thủ đoạn thống trị độc ác và nham hiểm của giai cấp thống trị, những thành kiến, định kiến tồi tệ và thái độ hắt hủi nhục mạ của những người xung quanh đã đẩy Chí Phèo càng ngày càng xa dần đồng loại của mình, trở thành một “con vật lạ”, “con quỷ dữ” của làng Vũ Đại. Đẻ ra anh cố nông hiền như đất là một bà mẹ tội nghiệp, khốn nạn nào đó đã lén lút vứt con ở cái lò gạch cũ. Còn đẻ ra thằng Chí Phèo chuyên rạch mặt ăn vạ là cả cái xã hội thực dân phong kiến đầy bất công, vô nhân Ngôn ngữ của Nam Cao hết sức tự nhiên, sinh động, gần với lời ăn tiếng nói hàng ngày của quần chúng. Trong sáng tác của Nam Cao có sự chuyển hóa giữa ngôn ngữ người kể chuyện với ngôn ngữ nhân vật góp phần đắc lực vào việc miêu tả tâm lí nhân vật.​ Đọc truyện Nam Cao, ta nhận ra ở đây một hệ thống ngôn ngữ hết sức tự nhiên, sinh động gần với lời ăn tiếng nói hàng ngày. Có những đoạn văn, tác giả chỉ sử dụng một kiểu ngôn ngữ đặc sệt chất đời thường, là ngôn ngữ của quần chúng, nhân dân lao động “ Cái đầu thì trọc lốc, cái răng thì trắng hớn, cái mặt thì đen mà rất cơng cơng, hai mắt gườm gườm trông gớm chết.” Chí Phèo; “Ngay cái tên cũng khó nghe rồi. Thà cứ là Kèo, là Cột, là Hạ, là Đông. Là gì cũng còn dễ nghe. Nhưng hắn ta lại là Trạch Văn Đoành. Nghe như súng thần công. Nó chọc vào lỗ tai.” Đôi Móng Giò; “Ối làng nước ôi! Cứu tôi với… Ối làng nước ôi! Bố con thằng Kiến nó đâm chết tôi! ” Chí Phèo Có thể nói hơn bất kì một nhà văn khác cùng thời , ngôn ngữ Nam Cao cho đến bây giờ vẫn tỏ ra không cũ với thời gian, cả về mặt từ vựng, ngữ nghĩa, cú pháp. Những lớp ngôn ngữ ấy đã ăn sâu vào đời sống của nhân dân. Mỗi khi nhắc đến kẻ lưu manh, người ta vẫn thường hình dung ra cái dáng vẻ “cơng cơng”, “gớm chết” của Chí Phèo như một hình ảnh tiêu biểu. Sức sống ngôn từ của Nam Cao là ở Cao đã đem ngôn ngữ làng quê vào truyện một cách tự nhiên. Đó là những cách ví von, những cách suy nghĩ, nói năng, cách diễn đạt đặc thù của người nông dân Bắc Bộ “chõ mõm vào”, “đầu gio mặt muối”, “chạy xạc cả gấu váy”, “buồn cười chửa”… Có thể nói chất giọng, ngôn ngữ nông dân Bắc Bộ chi phối nhiều đến yếu tố văn chương của Nam Cao và là một trong những đăcj điểm quan trọng tạo nên phong cách nghệ thuật Nam Cao, đặc biệt trong việc thể hiện tâm lí nhân vật. Nam Cao có khả năng lựa chọn ngôn ngữ riêng phù hợp với tính cách và hoàn cảnh cụ thể của nhân vật. Đây là ngôn ngữ của Bá Kiến quát mấy bà vợ đang xưng xỉa với chồng “ Các bà đi vào nhà. Đàn bà chỉ lôi thôi, biết gì!”, với người làng, lão dịu giọng nhưng vẫn tỏ ra thế bề trên “Các ông, các bà nữa, về đi thôi chứ. Có gì mà xúm lại như thế nào?” Với Chí Phèo đang rạch mặt ăn vạ, hắn tỏ ra ngọt dịu, vừa dụ dỗ, vừa ra uy “Anh Chí ơi! Sao anh lại làm ra thế? Còn ngôn ngữ Chí Phèo cũng “đặc” Chí Phèo hỗn láo, thực dụng, dọa dẫm “ Tao chỉ liều chết với bố con nhà mày đấy thôi. Nhưng tao mà chết thì có thằng sạt nghiệp, mà còn rũ tù chưa biết chừng”. Nhưng với Thị Nhở hắn tỏ vẻ thân tình hơn “Giá cứ thế này mãi thì thích nhỉ”. Qua những ngôn ngữ ấy, bản chất nhân vật được hiện lên đầy đủ, chân thực. Qua cách nói chuyện ta nhận ra sự gian manh, theo đời của Bá Kiến…Đặc biệt, Nam Cao thường tạo nên sự chuyển hóa giữa ngôn ngữ tác giả và ngôn ngữ nhân vật. Người trần thuật – tác giả ở đây đã nhập vai chứ không nhập thân vào nhân vật. Người trần thuật thâm nhập vào cảm xúc, suy nghĩ, ấn tượng của nhân vật và trần thuật bằng chính giọng điệu của nó. Trong những trường hợp như thế, khoảng cách giữa người trần thuật và nhân vật trên thực tế bị thủ tiêu, điểm nhìn của cả hai phía đều hòa nhập làm một. Như khi mở đầu truyện “Chí Phèo” “hắn vừa đi vừa chửi. Bao giờ cũng thế cứ rượu xong là hắn chửi. Bắt đầu hắn chửi trời. Có hề gì? Trời có của riêng nhà nào? Rồi hắn chửi đời. Thế cũng chẳng sao đời là tất cả nhưng chẳng là ai. Tức mình, hắn chửi ngay tất cả làng Vũ Đại. Nhưng cả làng Vũ Đại ai cũng nhủ “ chắc nó trừ mình ra!” “ Không ai lên tiếng cả. Tức thật! Ờ! Thế này thì tức thật, tức chết đi được mất!” Chinh sự đa dạng, đan xen, biến hóa của ngôn ngữ đã góp phần làm nên phong cách nghệ thuật nhà văn Nam Truyện NC thường kết cấu theo dòng tâm lí của nhân vật, mạch tự sự của tác phẩm Nam Cao, thường đảo lộn trật tự của thời gian, không gian tạo nên lối kết cấu vừa linh hoạt vừa hết sức chặt chẽ.​Truyện Nam Cao thường kết cấu theo dòng tâm lí nhân vật. Mạch tự sự của truyện không theo trật tự thời gian – không gian, tạo nên một lối kết cấu linh hoạt, chặt chẽ. Truyện của Nam Cao không đi theo trình tự cuộc đời nhân vật mà tuân theo trình tự tâm lí. Do vậy kết cấu tâm lí trở thành đặc điểm của văn xuôi hiện đại. Truyện không có cốt truyện hoặc mờ dần vai trò của cốt truyện, thì từ đó “nghệ thuật của nội dung càng tăng thêm giá trị, ý nghĩa của truyện ngắn. Có thể kể ra hàng loạt các tác phẩm nổi tiếng, mà hình thức của truyện là không có cốt truyện như “Tội ác và trừng phạt” Đốtxtôiepki, “Ông già và biển cả” Hemingway, “Đỏ và đen” Xtăngđen…Khảo sát văn Nam Cao chúng ta thấy nhà văn có kiểu kết cấu độc đáo. Các nhà văn Việt Nam trước Nam Cao tài năng trong việc kể, còn Nam Cao đem tâm lý nhân vật ra xâu chuỗi thành những truyện ngắn, tiểu thuyết đầy sức lôi cuốn với độc giả. Tiểu thuyết “Sống mòn” đã xoay quanh câu chuyện mấy tri thức tiểu tư sản và mấy thầy cô giáo. Truyện không tìm thấy một cốt truyện rõ ràng trong truyện truyền thống, song dòng tâm lí nhân vật đã tạo sức hấp dẫn bạn đọc, thậm chí có người không ngớt thán phục “Tiên sư nhà văn Nam Cao” Mượn ý của truyện “Đôi Mắt”. Văn học hiện đại trên thế giới đã có một tư duy mới về kết cấu tác phẩm. Theo “Từ lâu cốt truyện không còn là nền tảng của tiểu thuyết nữa”, Proust – nhà văn Pháp nhấn mạnh “Cốt truyện tan ra để tái kết lại phục vụ cho một kết cấu thời gian tâm lý. Trong sự vận động cho đến ngày nay của văn xuôi hiện đại, vai trò của cốt truyện càng giảm, nhường chỗ cho ngòi bút công phá vào chiều sâu tâm lý nhân vật. Truyện hiện đại khám phá những góc khuất tâm hồn. Nhà văn Nam Cao ngay từ những năm 1930 – 1945 đã chọn lối kể chuyện theo dòng tâm lý ở hầu khắp tác phẩm và ông quả là cây bút khá nhạy cảm với quan niệm văn xuôi hiện xây dựng nhân vật theo dòng tâm lý, nhà văn sử dụng kết hợp thủ pháp độc thoại nội tâm, hai yếu tố đó trở thành đối tượng miêu tả trực tiếp của nghệ thuật. Hãy đến với những dòng tâm lý của Chí Phèo, đặc biệt là giai đoạn sau khi gặp Thị Nở. Lúc đầu hắn đến với thị chỉ là theo bản năng cộng với cơn cảm lạnh thì sau khi thức dậy, hắn như tỉnh dậy sau một cơn say rất dài. Đây là lần thứ nhất hắn tỉnh. Những cảm giác của hắn đã bắt đầu sống dậy hắn nghe thấy “tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá”, “tiếng cười nói của những người đi chợ”, “anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá”, những tiếng quen thuộc ấy ngày nào chả có nhưng hôm nay hắn mới nghe thấy. Những kí ức xưa quay trở về. Hắn nhớ hắn từng có ước mơ giản dị như bao người khác “Một gia đình nho nhỏ, chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải, khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm…”. Hắn thấy mình già nhưng vẫn còn cô độc. Chính sự chăm sóc nhiệt tình cùng với bát cháo hành là liều thuốc giải độc cho tâm hồn bất hại của Chí Phèo, khiến lương thiện nổi dậy trong hắn nhưng ngờ đâu cánh của cuộc đời vừa mới mở đã bị đóng sầm ngay trước mặt vì sự phản đối của bà cô Thị Nở. Cuộc đời Chí Phèo chấm dứt từ đây. Nam Cao thật tài tình khi phác hoạ những dòng suy nghĩ ẩn chứa sâu trong tâm hồn Chí Phèo. Nói chung văn xuôi hiện đại đến Nam Cao đã tạo ra “một bước tiến dài trong kết cấu”. Nhờ xây dựng cốt truyện theo dòng tâm lý nhân vật, truyện ông thường mở đầu những trắc ẩn trong tâm hồn nhân vật hoặc phần cuối câu chuyện được đưa lên trước. Truyện ngắn “Lão Hạc” cái ý định bán chó được đưa lên đầu câu chuyện, sau đó tác giả để cho nhân vật ông giáo kể về đứa con của lão, rồi nỗi đau của ông già phải bán đi cậu Vàng con chó gắn bó với mình. Như vậy, ở truyện của Nam Cao, kết cấu tâm lý đâu chỉ phù hợp với nhân vật người trí thức mà tác giả đã vận dụng kết cấu hiện đại này để miêu tả nội tâm của người nông truyện ngắn “Một đám cưới”, tác giả đã “khai bút” bằng cảm giác của nhân vật Dần trong một buổi sáng. Sau đó, tác giả mới kể lại tâm lý của một cô gái khi xa nà đi ở. Cuối cùng là diễn biến tâm lý ngày đầu tiên đi về nhà chồng. “Đời thừa” được bắt đầu ở chính giữa mạch truyện đồng thời trong toàn bộ văn bản truyện, Nam Cao không tuân thủ trật tự tự nhiên của các tình tiết sự kiện. Được mở đầu bằng cảnh Hộ ngồi đọc sách một cách khắc khổ và tràn ngập hạnh phúc. Nam Cao đột ngột cắt đứt mạch kể để ngược về quá khứ, trình bày lại cuộc đời của Hộ trước khi lấy Từ. Hành vi cao thượng của y cứu vớt cuộc đời Từ và quãng đời của y trước khi lấy Từ. Sau đó mạch truyện lại quay về với cảnh Hộ đọc sách để tiếp tục “chạy” theo diễn biến của cốt truyện. Lối kể này không chỉ tạo nên một không khí cuốn hút người đọc nhập thẳng vào không khí căng thẳng của thế giới nghệ thuật trong truyện đồng thời tạo nên một lối kết cấu linh hoạt, chặt cận truyện của Nam Cao, độc giả đối diện với kiểu tính chất “đang suy nghĩ”, “đang độc thoại”,…của nhân vật. Dòng tâm lý nhân vật được vận động không ngừng. Các yếu tố không gian, thời gian được lược bỏ đi nhiều. Tóm lại truyện Nam Cao thường kết cấu theo dòng tâm lý nhân vật. Mạch tự sự của truyện không theo trật tự thời gian, không gian, tạo nên một lối kết cấu linh hoạt, chặt Về giọng điệu, văn NC vừa tỉnh táo, sắc lạnh vừa nặng trĩu suy tư và đằm thắm thương yêu. Hai giọng văn đối lập nhau cứ chuyển hoá qua lại, tạo nên những trang viết thú vị, hấp dẫn.​Trước hết là cách gọi tên nhân vật Chí là “hắn”, cách miêu tả về cuộc đời khi từ từ trở về bắt đầu bằng tiếng chửi “Hắn vừa đi vừa chửi. Hắn chửi đời…chửi cả làng Vũ Đại”.Giọng lạnh lùng khách quan, tỉnh táo ,sắc lạnh là đặc trưng của Nam Cao. Ở đây Nam Cao tách mình ra khỏi nhân vật, ông đứng bên ngoài sự thất trần trụi, vẫn tự nhiên khách quan kể về quá trình tha hóa của Chí Phèo như thiếu thiện cảm với nhân vật “Hắn về lớp này trông khác hẳn. Trông đặc như thằng săng đá…”. Ta thấy giọng của Nam Cao dường như khắc nghiệt tàn nhẫn lạ lùng. Ông miêu tả tình yêu của Từ đối với chồng “Từ yêu chồng bằng một tình yêu của một con chó đối với chủ nuôi” trong Đời Thừa. Đôi khi ta thấy nhà văn như muốn nghiêng về cái ác khi điễn tả dòng tâm lí của nhân vật Hộ “Phải biết ác, biết tàn nhẫn để sống cho mạnh mẽ”. Thế nhưng bên trong cái sắc lạnh ấy ta lãi cảm nhận một tình yêu dạt dào dành cho những nhân vật đau khổ của mình. Sau khi miêu tả quá trình tha hóa của Chí Phèo, ta thấy ông đã dành những trang văn riêng để nói lên những biến thái tinh vi trong tâm trạng của một con quỉ làng vũ Đại muốn trở thành người lương thiện. Tả cảm giác của Chí Phèo khi tỉnh dậy sau một cơn say dài, nghe những âm thanh của cuộc sống thường nhật “Tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá. Có tiếng cười nói của những người đi chợ…”. Đoạn tả Chí Phèo với cảm giác lần đâu tiên nếm hương vị cháo hành, hương vị của tình yêu “ Trời ơi cháo mới thơm làm sao! Chỉ khói xông vào mũi cũng đủ làm người nhẹ nhõm. Hắn húp một húp và nhận ra rằng Những người suốt đời không ăn cháo hành không biết rằng cháo hành ăn rất ngon. Nhưng tại sao mãi đến tận bây giờ hắn mới nếm mùi vị cháo?”. Nam Cao trân trọng khát khao muốn làm người lương thiện của Chí. Những lời ấy thống thiết xúc động biết bao “Trời ơi! Hắn thèm lương thiện, hắn muốn làm hòa với mọi người biết bao! Thị Nở sẽ mở đường cho hắn. Họ sẽ nhận hắn vào cái xã hội bằng phẳng, thân thiện của người lương thiện”. Cái cảm thông đau đớn của ông khi biết Chí Phèo bị cự tuyệt quyền làm người “Hơi rượu không sặc sụa, hắn cứ thoang thoảng thấy hơi cháo hành”.Dường như ta thấy thấm đẫm trong những giọt nước mắt của Hộ sau khi đánh Từ thấp thoáng niềm cảm thông cảu nhà văn trước bi kịch của người nghệ sĩ không giải quyết được những mâu thuẫn giữa nghệ thuật và tình yêu thương con người. “Nước mắt hắn bật ra như nước một quả chanh mà người ta bóp mạnh. Và hắn khóc…Ôi chao! Hắn khóc! Hắn khóc nức nở, khóc như thể không ra tiếng khóc. Hắn ôm chặt lấy cái bàn tay nhỏ bé cả Từ vào ngực mình mà khóc”. Nam Cao thương cảm cho số phận và bi kịch của văn sĩ Hộ. Những giọt nước mắt chất chứa bao nhiêu tâm trạng, có tình yêu thương, có sự hối hận, nỗi đau tủi nhục. Người đọc không thể quên sau bao nhiêu lần lầm lỡ, Hộ vẫn giữ nguyên vẹn trái tim nhạy cảm đối với thân phận bất hạnh, cuối cùng vẫn đứng vững trên lẽ sống nhân đạo. Giọng của Nam Cao vừa tỉnh táo sắc lạnh, vừa trữ tình đằm thắm tin yêu. Từ đó cho thấy một tấm lòng nhân đạo cao cả của Nam Cao đối với con người, đó là lòng yêu thương, sự tin tưởng lớn lao dành cho các nhân vật. Nam Cao như đang muốn tâm tình, thỏ thẻ đằng sau giọng lạnh lùng giọng điệu này tuy đối lập nhưng có sự chuyển hóa qua lại giúp giải quyết vấn đề. Giọng điệu của Nam Cao là giọng khách quan đến lạnh lùng, tác giả như đứng ngoài dùng con mắt tỉnh táo để kể chuyện thế nhưng trong giọng lể của tác giả người ta lại bắt gặp Nam Cao trong nhân vật, như để thấu hiểu cảm thông cho chính nhân vật trữ tình. Có sự chuyển hóa tự nhiên giữa hai giọng điệu này “Ấy là lúc hắn lò dò về đến sân. Hắn đang đi bỗng giật mình. Một con chó đang thùi thùi trong bụi dong ở đấu sân nhảy choàng ra. Một tí nữa là nó đớp vào chân hắn. Hắn nhảy cẫn lên một cái và hắn sực nhớ ra rằng Nhà hắn có một con chó vện , con chó vện ấy hay trong gà hóa cuốc, nên lắm lúc chực đớp cả chân người…Hắn gật đầu luôn mấy cái vì sung sướng nghĩ ra điều ấy. Chao ôi! Chính cái đói đã đẩy con người vào cái không còn sĩ diện. Cái ăn sao mà lớn lao, mà to tát quá”. Nhà văn vẫn gọi nhân vật đằng sau những chữ “hắn”, “thị”, “y” như không hề có chút thiện cảm nào với nhân vật của mình. Thế nhưng nếu không tin yêu thì làm sao giọng văn lại như bùng nổ, như tha thiết khát khao cháy bỏng đến vậy “Trời ơi! Hắn thèm lương thiện, hắn muốn làm hòa với mọi người biết bao!”. Gọi “hắn” nhưng trong cái tiếng ấy ta thấy tác giả đã khéo léo gọi ra trong lòng độc giả cả phần lí trì lẫn phần tình trong cái giọng thản nhiên như khi miêu tả cái chết của anh Đĩ Chuột trong “Nghèo”, người đọc vẫn có thể nhận ra cái giọng xót thương đối với một kiếp người “Anh Đĩ Chuột rít hai hàm răng lại, hai chân giận dữ đạp phắt cái ghế đổ văng xuống đất. Cái tròng rút mạnh lại. Cái bộ xương bọc da giãy giụa như một con gà bẫy, sau cùng nó chỉ còn giật từng cái chậm dưới sợi thừng lũng lẳng”. Nhà văn phẫn uất chọn một cái chết đau khổ, đến khi chết vẫn không thể nhẹ nhàng thanh thản. Cái phẫn uất ấy xuất phát từ chính tấm lòng yêu thương cùa tác giả đối với nhân vật cảu cái nụ cười thản nhiên vui vẻ trước cảnh nghèo khổ- mâm cơm tết “cơm trắng, cá ngon, giò đây mâm, bành chưng rền lắm” cả nhà ngồi lặng im, Nam Cao cảm thấy như uất nghẹn, cái nghẹn đầy ứ của chính ông Đồ. Ông Đồ cứ nghẹn mãi, đôi mắt ông ầng ậc nước mắt. Uất quá, ác quá mà không thể nói ra đã khiến cho người đọc phải thấm thía lâu dài, phải suy nghĩ bằng chính giọng điệu thản nhiên đến lạ cái giọng mỉa mai châm biếm trong “Những truyện không muốn viết”, người đọc dễ tinh ý nhận ra thái độ nghiêm túc, tin tưởng vào phần tốt đẹp của con người. Viết chuyện “buồng cau, cây chuối, cục đất, buổi hoàng hôn hay con lợn, nhưng biết dâu đấy? …Tôi sợ có người lại nhận mình là buồng cau, cây chuối, cục đất. buổi hoàng hôn hay con lợn để mà không bằng lòng. Bởi thế, tuy chẳng muốn, tôi đành lại lấy tôi ra để viết cho yên chuyện”. Mọi diễn biến oay quanh trục, một giọng điệu thản nhiên nhưng lại luôn tin tưởng vào những giá trị thực sự của những sự việc nhỏ nhất và ý nghĩa của nó đối với cuộc sống. Tóm lại, Nam Cao đã viết bằng một chất giọng đối nghịch, bề ngoài lạnh lùng, bên trong trữ tình, xuất phát từ lối văn kể chuyện “nghiêm nghị và hài hước, trân trọng năng niu, và nhạo, đay mỉa”. Qua đó cho thấy một tấm lòng nhân đạo cao cả luôn suy tư về cuộc đời và trân trọng tin yêu nhân vật của mở rộng Điểm khác về phong cách nghệ thuật của Nam Cao so với các nhà văn cùng thời.​ Cần tìm ra những nhà văn tiêu biểu cùng thời với Nam Cao để so sánh. Ta có thể kể đến các nhà văn thuộc lãng mạn hoặc hiện thực, nhưng khó nhất vẫn là khi so sánh với các nhà văn cùng viết về hiện thực như Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố... Dựa vào 4 biểu hiện chính tạo nên phong cách sáng tác của một nhà văn để đưa ra những điểm so sánh. Điểm giống nhau của các tác giả cùng thời là cùng nhìn thấy và bất mãn trước hiện thực xã hội, nhưng cách phản ánh vào tác phẩm lại hoàn toàn khác nhau. - Trong cách nhìn cuộc sống, cùng là nhà văn hiện thực trước cách mạng như Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, nhưng Nam Cao quan tâm nhiều về nỗi khổ đến mức bi kịch của người trí thức. Nam Cao cũng cắt nghĩa được nguyên nhân sâu xa của nỗi khổ của họ và lên tiếng đánh động xã hội. “Người nọ, người kia không đáng để ta khinh ghét. Cái đáng nguyền rủa là cái xã hội kia. Nó đã tạo ra những con người tham lam và ích kỷ.” Sống mòn. Cái “hơn người” của Nam Cao là luôn băn khoăn về nhân phẩm của con người và ý thức báo động con người hãy giữ lấy nhân phẩm của mình trước những cái nhỏ mọn. Đó chính là chiều sâu của cái tâm nhà văn, nó định hướng cách nhìn đời và nhìn người của tác giả. - Trong giọng điệu, người ta hay nói giọng trào phúng của Vũ Trọng Phụng, giọng triết lý của Nam Cao. Ngay ở Nam Cao cũng có giọng trào phúng, nhưng đã có người chỉ ra rất cụ thể như sau “So với Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng thì Nam Cao có nhiều điểm khác biệt. Tiếng cười của Nguyễn Công Hoan là kiểu pha chút hài hước, Vũ Trọng Phụng là tiếng cười châm biếm, hướng ngoại, còn tiếng cười của Nam Cao là tiếng cười hướng nội, có chút cay đắng.” giọng văn NC vừa tỉnh táo, sắc lạnh vừa nặng trĩu suy tư và đằm thắm thương yêu. Hai giọng văn đối lập nhau cứ chuyển hoá qua lại, tạo nên những trang viết thú vị, hấp dẫn. - Nghệ thuật xây dựng nhân vật, Tài hoa và uyên bác là phong cách của Nguyễn Tuân trong việc vận dụng ngôn ngữ, ở lĩnh vực này thì Vũ Trọng Phụng để lại ấn tượng ở ngôn ngữ nhân vật đạt mức độ cá tính hóa cao nhất, Nam Cao đa phần là ở việc khắc họa tâm lí nhân vật qua giọng điệu, cử chỉ. Ngòi bút của ông có thể thâm nhập vào những quá trình tâm lý phức tạp, những ngõ ngách sâu kín nhất của tâm hồn con người; từ đó dựng lên được những nhân vật tư tưởng vừa có tầm khái quát lớn vừa có cá tính độc đáo. Ngôn ngữ của NC hết sức tự nhiên, sinh động, gần với lời ăn tiếng nói hàng ngày của quần chúng. Trong sáng tác của NC có sự chuyển hóa giữa ngôn ngữ người kể chuyện với ngôn ngữ nhân vật góp phần đắc lực vào việc miêu tả tâm lí nhân vật. - Phạm vi đề tài Nam Cao tập trung vào 2 đề tài chính là viết về người nông dân và tri thức tiểu tư sản. Đề tài hẹp nhưng ý tứ rộng. Nam Cao không chủ ý phản ánh những vấn đề, những hiện thực lớn lao của xã hội Việt Nam trước cách mạng tháng 8/1945. Nhà văn cũng chọn những hiện tượng tưởng như nhỏ nhặt đời thường của hai đối tượng để tạo dựng câu. chuyện. Nhưng triết lý về đời sống qua các “tiểu tiết” trong văn xuôi Nam Cao quả là không nhỏ. Nếu như với Ngô Tất Tố, nhà văn nổi tiếng viết về xung đột giai cấp gay gắt và phản ảnh bức tranh nông thôn toàn cảnh thì Nam Cao ít hướng đến phạm vi miêu tả rộng như thế. “Ông đã khai thác được cái chiều sâu, cái mạnh nước ngầm ẩn chứa bên trong và nâng lên một tầm khái quát cao hơn. Ở truyện ngắn của Nam Cao, chúng ta thường thấy hai tầng ý nghĩa Một tầng ý nghĩa gắn liền với những tình tiết, sự việc và câu chuyện mà nhà văn muốn trần thuật lại và tầng ý nghĩa thứ hai là những đúc kết có tính chất triết lý khái quát”. Phan Cự Đệ Chúng ta rất may mắn có được những cây bút văn học như Nguyễn Du, Nguyễn Khuyến, Trần Tế Xương, Vũ Trọng Phụng . càng vui mừng sự xuất hiện của cây bút văn xuôi Nam Cao. Đời sống và đời văn không dài, nhưng tác giả đã đóng dấu ấn phong cách nghệ thuật trên từng trang viết. Nổi bật trong phong cách sáng tác của NC Ngôn ngữ trần thuật đa giọng điệu, ngôn ngữ rất đời nhưng cũng rất văn. Đây là cây bút tài hoa trong việc biểu đạt ngôn ngữ nhân vật gần với lời ăn tiếng nói ngoài đời của đối tượng, từ đó khắc họa tính cách nhân vật. Nếu như nhân vật văn xuôi của các nhà văn hiện thực chủ nghĩa chủ yếu là nhân vật hành động, nhân vật tính cách, thì đến Nam Cao đã sáng tạo ra nhân vật tự ý thức. Nhà văn đã thể hiện nhu cầu của con người hiện đại tìm hiểu mọi ngóc ngách bên trong tâm hồn con người.... Xem thêm bài viết trong mục Lí luận văn học Văn học – nghệ thuật ngôn từ Nguyễn Bính - người giữ hồn quê Giá trị xã hội và ý nghĩa của văn học Giá trị hiện thực của tác phẩm văn học Hình tượng nghệ thuật và đặc trưng của hình tượng nghệ thuật Chủ đề văn học là gì? Các chủ đề văn học phổ biếnSưu tầm, tổng hợp​ YOMEDIA Bài học giúp các em nắm được khái niệm quá trình văn học, bước đầu có ý niệm về các trào lưu văn học tiêu biểu. Hiểu được khái niệm phong cách văn học, biết nhận diện những biểu hiện của phong cách văn học. Tóm tắt bài Quá trình văn học a. Khái niệm quá trình văn học Văn học là một loại hình nghệ thuật, một hình thái ý thức XH đặc thù luôn vận động biến chuyển. Diễn tiến của VH như một hệ thống chỉnh thể với sự hình thành tồn tại, thay đổi có mối quan hệ chặt chẽ với thời kỳ lịch sử. Quá trình VH là diễn biến hình thành tồn tại, phát triển, thay đổi của VH qua các thời kỳ lịch sử. b. Những qui luật cơ bản của quá trình văn học Quy luật vh gắn bó với đời sống”Thời đại nào văn học ấy”. Ví dụ CM/8 1945 mở ra trang sử mới của dân tộc đồng thời đánh dấu một thời kì mới trong sự vận động của văn học. Quy luật kế thừa và cách tân Ví dụ VHDG là cội nguồn của VH viết. Phong trào thơ mới1932-1945kế thừa nhiều yếu tố truyền thống của thơ ca cổ điển đồng thời khám phá mới mẻ. Qui luật bảo lưu và tiếp biến Ví dụ Sự giao lưu của VHVN với văn học TQ, Pháp, Nga. Trào lưu văn học Hoạt động nổi bật của quá trình VH là trào lưu VH. Trào lưu VH là một hiện tượng có tính chất lịch sử, ra đời và mất đi trong một khoảng thời gian nhất định. Đó là một phong trào sáng tác tập hợp những tác giả tác phẩm gần gũi nhau về cảm hứng, tư tưởng tạo thành một dòng rộng lớn có bề thế trong đời sống VH của một dân tộc. Các trào lưu văn học của thế giới VH thời Phục hưng Đặc trưng giải phóng con người, đề cao cá tính, chống lại sự khắc nghiệt của thời kỳ trung cổ. Tiêu biểu Sếch-xpia Anh, Xéc-van-tét Tây Ban Nha. Chủ nghĩa cổ điển Pháp TKXVII Đặc trưng xem văn hóa cổ đại là hình mẫu lý tưởng, đề cao lý trí, sáng tác theo quy luật chặt chẽ. Tiêu biểu Cooc-nây, Mô-li-e Pháp. Chủ nghĩa lãng mạn TKXVIII-XIX Đặc trưng đề cao những nguyên tắc chủ quan, lấy đề tài trong thế giới tưởng tượng của nhà văn, hình tượng nghệ thuật thường có vẻ đẹp khác thường. Tiêu biểu Huy-gô Pháp, Sin-le Đức. Chủ nghĩa hiện thực TKXIX Đặc trưng thiên về nguyên tắc khách quan, thường lấy đề tài từ cuộc sống hiện thực, xây dựng những tính cách điển hình vừa khái quát vừa cụ thể, tình cách phát triển hợp logic cuộc sống. Tiêu biểu Ban-dắc Pháp,Tôn-xtôi Nga. Chủ nghĩa hiện thực XHCN Đặc trưng miêu tả cuộc sống trong quá trình phát triển CM, đề cao vai trò lịch sử của nhân dân. Tiêu biểu M. Gor-ki Nga. Ở Việt Nam xuất hiện các trào lưu VH lãng mạn 1930-1945Tự lực văn đoàn và phong trào Thơ mới. VH hiện thực phê phán Ngô Tất Tố, Nam Cao … VH hiện thực XHCN HCM, Tố Hữu, Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu… Phong cách văn học phong cách nghệ thuật a. Khái niệm phong cách văn học Là những nét riêng biệt độc đáo của một tác giả trong quá trình nhận thức và phản ánh cuộc sống được thể hiện trong các yếu tố nội dung và hình thức của tác phẩm Quá trình VH mang tính lịch sử nên phong cách cũng in đậm dấu ấn dân tộc và thời đại. b. Những biểu hiện của phong cách văn học Giọng điệu riêng biệt, cách nhìn, cách cảm thụ có tính chất khám phá. Sự sáng tạo các yếu tố thuộc nội dung tác phẩm. Hệ thống phương thức biểu hiện, các thủ pháp kĩ thuật mang dấu ấn riêng. Thống nhất từ cốt lõi nhưng sự triển khai phải đa dạng, đổi mới. Có phẩm chất thẩm mỹ cao, giàu tính nghệ thuật. Bài tập minh họa Ví dụ Trình bày một cách ngắn gọn và đầy đủ những nét chính của phong cách nghệ thuật Hồ Chí Minh. Gợi ý làm bài Phong cách Hồ Chí Minh rất hấp dẫn, độc đáo, đa dạng mà rất thống nhất. Ở mỗi thể loại văn học, từ văn chính luận, truyện, ký đến thơ ca, Hồ Chí Minh đều tạo được những nét phong cách riêng độc đáo và hấp dẫn. Văn chính luận của Người thường ngắn gọn, súc tích, lập luận chặt chẽ, lý lẽ đanh thép, bằng chứng đầy sức thuyết phục, đầy tính chiến đấu và đa dạng về bút pháp. Văn chính luận của Người có sự kết hợp giữa tình và lý, lời văn giàu hình ảnh, giọng điệu khi ôn tồn thân mật như đưa lẽ phải thấm vào lòng người, khi mạnh mẽ, hùng hồn. Truyện, ký của Người được viết với bút pháp rất hiện đại, đầy sáng tạo, thể hiện tính chiến đấu mạnh mẽ và nghệ thuật trào phúng sắc bén. Tiếng cười trào phúng của Nguyễn Ái Quốc tuy nhẹ nhàng, hóm hỉnh nhưng thâm thúy, sâu cay. Thơ ca thể hiện sâu sắc và tinh tế vẻ đẹp tâm hồn Hồ Chí Minh. Những bài thơ nhằm mục đích tuyên truyền cách mạng thường được viết bằng hình thức bài ca, lời lẽ giản dị, mộc mạc, dễ nhớ mang màu sắc dân gian hiện đại. Những bài thơ nghệ thuật viết theo cảm hứng thẩm mỹ hầu hết là thơ tứ tuyệt cổ điển, bằng chữ Hán, mang đặc điểm của thơ cổ Phương Đông với sự kết hợp hài hòa giữa màu sắc cổ điển với bút pháp hiện đại, giản dị mà sâu sắc, lấp lánh chất thép mà chứa chan chất tình, từ tư tưởng đến hành động có sự vận động tự nhiên và nhất quán hướng về sự sống, ánh sáng và tương lai. Nhìn chung, văn thơ của Hồ Chí Minh có phong cách hết sức phong phú, đa dạng mà thống nhất. Đó là cách viết ngắn gọn, trong sáng, giản dị, sử dụng linh hoạt các thủ pháp và bút pháp nghệ thuật khác nhau, nhằm thể hiện một cách nhuần nhị và sâu sắc nhất tư tưởng của Hồ Chí Minh, “Tinh hoa của dân tộc, khí phách của non sông”. - Mod Ngữ văn 12 HỌC247 ZUNIA9 Bài học cùng chương ZUNIA9 XEM NHANH CHƯƠNG TRÌNH LỚP 12 YOMEDIA Phong cách học tiếng Anh stylistics là một nhánh của ngôn ngữ học ứng dụng, là môn khoa học nghiên cứu và giải thích các tất cả các loại văn bản hoặc có khi là ngôn ngữ nói, về mặt phong cách ngôn ngữ và âm điệu. Phong cách ở đây là sự đa dạng của ngôn ngữ được sử dụng bởi các cá nhân khác nhau hay trong các tình huống và ngữ cảnh khác nhau. Chẳng hạn, ngôn ngữ hàng ngày suồng sã được dùng giữa những người bạn với nhau, trong khi ngôn ngữ trang trọng hơn về mặt ngữ pháp, phát âm hoặc ngữ điệu, từ vựng thường được sử dụng trong thư xin việc, sơ yếu lý lịch, phỏng vấn việc làm,... Phong cách học liên kết phê bình văn học với ngôn ngữ học. Bản thân môn này không phải là một lĩnh vực đứng riêng một mình mà có thể giúp hiểu văn học, báo chí cũng như ngôn ngữ học.[1][2][3] Nguồn nghiên cứu của phong cách học là các tác phẩm kinh điển đến các văn bản phổ thông, và từ mẩu tin quảng cáo đến đoạn tin tức,[4] văn bản phi hư cấu, văn hóa đại chúng, nghị luận chính trị và tôn giáo.[5] Phong cách học có thể cố gắng thiết lập các nguyên lý nhằm giải thích những lựa chọn cụ thể của cá nhân và nhóm xã hội khi họ sử dụng ngôn ngữ, như trong việc sáng tác văn chương và tiếp nhận thể loại, nghiên cứu nghệ thuật dân gian, nghiên cứu phương ngữ; môn này có thể được áp dụng cho các lĩnh vực như phân tích diễn ngôn cũng như phê bình văn học. Đặc điểm chung của phong cách là việc sử dụng các đối thoại, bao hàm cả ngữ điệu vùng miền và các câu thành ngữ, sự phân bố của độ dài câu, vân vân. Ngoài ra, phong cách học có thể được sử dụng để xác định mối liên hệ giữa hình thức và hiệu ứng trong một loại ngôn ngữ cụ thể. Do đó, phong cách học xem xét những gì "đang diễn ra" trong ngôn ngữ. Phong cách văn học là gì?Những biểu hiện của phong cách văn số vấn đề lưu ý về phong cách. Phong cách văn học là gì? Những phương diện thể hiện phong cách văn học. Gợi ý làm bài + Phong cách văn học hay phong cách nghệ thuật là những nét riêng biệt, độc đáo của một tác giả trong quá trình nhận thức và phản ánh cuộc sống, những nét độc đáo ấy thể hiện trong tất cả các yếu tố nội dung và hình thức của từng tác phẩm cụ thể. + Yếu tố cốt lõi của phong cách là cái nhìn mang tính phát hiện, in đậm dấu ấn riêng của người nghệ sĩ “Thế giới được tạo lập không phải một lần, mà mỗi lần ne;ười nghệ sĩ độc đáo xuất hiện thì lại một lần thế giới được tạo lập” M. Pru-xtơ. + Phong cách văn học còn mang dấu ấn của dân tộc và thời đại. Trong phong cách riêng của mỗi tác giả, người ta có thể nhận ra diện mạo tâm hồn, tính cách của một dân tộc và “Mỗi trang văn đều soi bóng thời đại mà nó ra đời” Tô Hoài. Chẳng hạn, qua những biểu hiện của phong cách Nguyễn Du trong Truyện Kiều, có thể thấy nét riêng của tâm hồn Việt Nam và dấu ấn của một thời “dâu bể”. Những biểu hiện của phong cách văn học. + Phong cách vãn học trước hết được biểu hiện qua cái nhìn và giọng điệu độc đáo, riêng biệt của tác giả. Ví dụ Cái nhìn tài hoa, có khả năng khám phá mọi đối tượng từ phương diện thẩm mĩ của Nguyễn Tuân. Qua cái nhìn ấy, thiên nhiên hiện lên như những công trình mĩ thuật hoàn hảo của tạo hoá; con người luôn tiềm ẩn tư chất nghệ sĩ, tài hoa, tài tử. Giọng điệu trào phúng của Nguyễn Khuyên thì hóm hỉnh, thâm trầm trong khi tiếng cười của Tú Xương lại châm biếm sâu cay, đả kích quyết liệt. + Các lớp nội dung của tác phẩm như đề tài, chủ đề, cốt truyện, nhân vật,… cũng là những yếu tố thổ hiện phong cách văn học. Nói đến Nam Cao là người ta nghĩ ngay tới một nhà văn của “những kiếp lầm than”, một người cầm bút với tâm hồn rộng mở để đón nhận “những vangđộng của đời”. Nhắc tới Xuân Diệu là người đọc nhớ về một hồn thơ luôn khát khao giao cảm với đời, luôn nồng nàn, say đắm trong tình yêu. + Phong cách văn học còn được biểu hiện qua hệ thống các phương tiện nghệ thuật mà nhà văn lựa chọn để tái hiện đời sống, từ cách dùng từ, lối cấu tạo câu đến nghệ thuậtxây dựng nhân vật, tổ chức kết cấu. Tô Hoài nổi tiếng là nhà văn giỏi miêu tả phong tục, giỏi khắc hoạ nét đẹp riêng trong cảnh vật và tính cách con người của một vùng đất. Nguyễn Tuân xứng đáng với danh hiệu bậc thầy trong nghệ thuật sử dụng ngôn từ với khả năng sáng tạo những từ ngữ, hình ảnh mới lạ, bất ngờ; nhữngcâu văn giàu chất nhạc, chất hoạ, linh hoạt như “biết co duỗi nhịp nhàng”. + Trong biểu hiện của phong cách văn học luôn có sự hoà quyện giữa các yếu tố định hình, thống nhất và sự biến đổi đa dạng, phongphú. Và điều quan trọng nhất là phong cách phải có ý nghĩa thẩm mĩ – mang đến cho người đọc những tình cảm, cảm xúc thẩm mĩ phong phú. Một số vấn đề lưu ý về phong cách. + Nguyễn Đăng Mạnh trong Nhà văn, tư tưởng và phong cách 3 gắn phong cách với cá tính nhà văn. “Văn chương là một hình thái ý thức xã hội có đặc trưng riêng. Đây là lĩnh vực cần đến năng khiếu và tài nghệ, cần cá tính và phong cách”. Rồi sau đó, trong Nhà văn Việt Nam hiện đại chân dung và phong cách 4, ông coi phong cách “phụ thuộc vào những thói quen tâm lý và những sở trường riêng của nhà văn”. Từ đó, “dựng” nên phong cách nhà văn, như Nguyễn Tuân ngông, Quang Dũng tài hoa, tài tử, phong tình và lãng mạn, Nguyễn Đình Thi nhà thơ của đất nước tươi đẹp và hùng tráng đau thương, thơ Hoàng Cầm là linh hồn của quê hương Kinh Bắc cổ kính, đầy huyền thoại, cổ tích và chứa chan chất nhạc, chất thơ, Nguyên Ngọc là cây bút sử thi – lãng mạn, một chủ nghĩa lãng mạn anh hùng đầy chất thơ… Rồi Đào Thái Tôn trong Thơ Hồ Xuân Hương, từ cội nguồn vào thế tục 5, khi đi tìm một cơ sở để lựa chọn thơ nôm truyền tụng của nữ sĩ đã “dùng phong cách Lưu Hương ký để xác định phong cách “thơ nôm truyền tụng” của Hồ Xuân Hương”. Ông dựa vào bài Tựa của Tốn Phong Thị để xác định phong cách thơ bà như học rộng mà thuần thục, vui mà không buông tuồng, buồn mà không đau thương, khốn mà không lo phiền, cùng mà không bức bách… ở đây chưa nói đến việc ông Đào cũng như vị Chưởng môn của ông, Hoàng Xuân Hãn chưa chứng minh được tác giả tập Lưu Hương ký và tác giả “thơ nôm truyền tụng” là một trừ cái tên trùng, và giả thử có là một đi nữa thì cũng không thể lấy phong cách của tác phẩm này để làm khuôn áp vào tác phẩm kia, bởi tuy chung một giàn, nhưng chúng lại khác giống, mà chỉ muốn nói rằng, cách minh định phong cách như vậy, cả ở thầy Đào lẫn “thầy Mạnh”, còn bị lẫn lộn giữa phong cách tác giả và phong cách tác phẩm. Các định ngữ để định nghĩa phong cách như thơ Hồ Xuân Hương vui mà không buông tuồng, thơ Hoàng Cầm là linh hồn của quê hương Kinh Bắc cổ kính… có thể đóng vào con người Hồ Xuân Hương, con người Hoàng Cầm cũng được, mà vào thơ Hồ Xuân Hương, thơ Hoàng Cầm cũng chẳng sao. Chính sự “nhập nhằng” này làm cho các định nghĩa trên không có giátrị khái niệm hóa đã đành, mà cả giá trị thao tác. + Chính ngữ học cấu trúc của Ferdinand de Saussure đã “cứu” cho phong cách học cổ điển một “bàn thua trông thấy”. Cuộc cách mạng ngữ học lần thứ nhất này đã khiến ngôn ngữ thoát khỏi thân phận “đầy tớ” để trở thành “ông chủ” ngôn ngữ từ nay không chỉ là công cụ của tư duy, cái vỏ chứa tư tưởng, mà còn sản sinh ra tư tưởng. Các nhà thơ làm thơ không phải với các tư tưởng, mà với các con chữ. Là nhân vật chính của văn chương, ngôn ngữ cũng sẽ là nhân vật chính, kiểu một anh hùng thời đại, của phê bình. Phong cách học, nhờ thế, mở một con đường lớn vào tòa lâu đài của nghệ thuật ngôn từ. Phong cách học cổ điển, đứa trẻ song sinh dính liền của từ chương học, từ chỗ là một bộ phận của ngữ học dạy người ta viết hay trở thành phong cách học hiện đại, một lý thuyết văn chương. Phê bình phong cách học trước hết chống lại cái nhìn quy phạm của từ chương học, vượt qua sự tìm kiếm dấu ấn cá nhân nhà văn của thời đại lãng mạn để trở thành một cái nhìn khoa học. + Người đầu tiên thực hành phê bình phong cách học ở Việt Nam là Phan Ngọc với công trình Tìm hiểu phong cách Nguyễn Du trong Truyện Kiều6. Theo Phan Ngọc, mỗi một ký hiệu ngôn ngữ có hai mặt, mặt thông báo và mặt biểu cảm. Phong cách học chính là thứ khoa học chỉ nghiên cứu cái mặt biểu cảm này của ngôn ngữ. Cụ thể hơn, nó nghiên cứu các kiểu lựa chọn và giá trị biểu cảm của các kiểu lựa chọn ấy. Để lựa chọn, ít nhất phải có từ hai phương án trở lên. Vậy nhà nghiên cứu phải làm cái thao tác đối lập để tìm ra các phương án này. Đó là sự đối lập cái âm, cái từ, cái câu, cái kiến trúc ngôn từ, cái thể loại đã có ở văn bản, tức đã được tác giả chọn, với cái âm, cái từ, cái câu, cái kiến trúc ngôn từ, cái thể loại có thể được dùng và dùng được mà vắng mặt trong văn bản do tác giả đã không chọn. Và để xác định được phương án tác giả đã chọn là có giá trị biểu cảm tốt nhất, người phê bình phải dùng phương pháp thay thế lấy một hoặc nhiều phương án bị bỏ qua lần lượt thế vào chỗ phương án được chọn để đánh giá hiệu quả nghệ thuật của nó. Nếu hiệu quả nghệ thuật kém hơn thì sự lựa chọn của tác giả là đúng, còn không thì cái bỏ qua trở thành bỏ lỡ. + Một kiểu lựa chọn có giá trị thẩm mỹ thì, theo Phan Ngọc, trước hết nó phải được chuẩn bị về mặt ngữ cảnh, tức tạo ra một môi trường sống cho nó và của nó. Đánh giá một hiện tượng phong cách học chính là nhận xét xem nó có phù hợp với ngữ cảnh hay không. Ví như, từ chuộc động từ, bỏ tiền ra lấy lại một cái gì đó trong bài Khóc Tổng Cóc của Hồ Xuân Hương, sở dĩ nó có nghĩa thứ hai, tức trở thành một đồng âm phong cách học danh từ, con chão chuộc, một loại ếch nhái, vì nó đã được chuẩn bị bởi ngữ cảnh gồm có những từ cóc, nhái bén, nòng nọc, chão chàng. Hoặc câu Hoa đào năm ngoái còn cười gió đông của Nguyễn Du đã được nhà thơ chuẩn bị ngữ cảnh cho nó thật công phu. Trước hết, câu này lấy ý từ câu Đào hoa y cựu tiếu đông phong của Thôi Hộ và nhờ tính liên văn bản ta có thể hiểu ngay. Cái ngơ ngác của Kim Trọng khi trở về vườn Thúy cũng chính là cái ngơ ngác của chàng thi sĩ đời Đường cách đây trên nghìn năm. Tuy nhiên, ở đây cây đào của Nguyễn Du còn là cây đào cụ thể, cá biệt, kẻ đã từng chứng kiến cuộc gặp gỡ đầu tiên của Kim Kiều và cũng là kẻ đã giữ hộ chiếc thoa của Thúy Kiều đã vô tình mắc gửi vào đấy. Bởi vậy, thi sĩ đời Nguyễn nói Hoa đào năm ngoái chứ không nói Hoa đào cười với gió đông như xưa là vì ông muốn chứng minh một sự thực Kim Trọng ra đi đúng một năm, nay trở về. Hơn nữa, nói hoa đào năm ngoái còn cười với gió đông năm nay là đã xóa bỏ thời gian vật lý và thay vào đó thời gian tâm lý để khẳng định sự thống nhất của sự vật với con người. + Dĩ nhiên, không phải công trình nghệ thuật nào cũng có phong cách. Một tác phẩm chỉ có phong cách khi nó đạt được tính cấu trúc, tức có sự thống nhất hữu cơ của các bộ phận trong một chỉnh thể. Bởi vậy, chỉ cần biết một bộ phận là có thể suy ra cái toàn thể, như lý thuyết toàn đồ đã chứng minh. Chính vì phong cách là một phạm trù chất lượng, nên trong nghệ thuật có được phong cách là một hiện tượng rất quý. Và, vì thế, không phải tác giả nào cũng có phong cách, thể loại nào cũng có phong cách và thời đại nào cũng có phong cách.

phong cách văn học